Nội dung sự việc:
Luật sư Trần Văn S thuộc có nhận làm đại diện ủy quyền tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị N. Văn bản ủy quyền được chứng thực theo quy định pháp luật, được nộp ngay từ khi bắt đầu khởi kiện, với nội dung và phạm vi ủyquyền như sau: “Ông Trần Văn S được đại diện cho bà Nguyễn Thị N tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; bà Nguyễn Thị N cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ ủy quyền và không khiếu nại về sau; thời gian ủy quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”.
Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Trần Văn S đã thay mặt bà Nguyễn Thị N đứng tên kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện M. Nội dung đơn kháng cáo đúng theo quy định nhưng Thẩm phán giải quyết vụ án không nhận đơn với lý do: ông Trần Văn S không được quyền kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị N mà phải có văn bản ủy quyền ghi rõ là ông S được ủy quyền kháng cáo thay và phải có công chứng, chứng thực (theo tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thực hiện điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ diễn biến nêu trên đã phát sinh 2 quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tại Điều 243 BLTTDS quy định về người có quyền kháng cáo: “Đương sự, người đại điện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”.
Tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: “Việc ủy quyền tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Tòa án được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủyquyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm”.
Do đó, theo quan điểm này thì người đại diện của đương sự phải thực hiện theo đúng các quy định của Điều 243 BLTTDS và hướng dẫn của mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP nêu trên, tức là phải có làm thêm văn bản ủy quyền và phải có nội dung ghi rõ bà Nguyễn Thị N ủy quyền cho ông Trần Văn S kháng cáo.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tại khoản 1 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền”.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 74 BLTTDS quy định: “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”.
Theo các quy định nêu trên thì không cần thiết phải làm thêm văn bản ủy quyền kháng cáo cho người đại diện của đương sự. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi ủy quyền của bà Nguyễn Thị N ghi rất cụ thể là ông Trần Văn S được đại diện cho bà tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định. Hay nói cách khác, quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 BLTTDS cũng đã bao gồm cả quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.
Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, đồng thời nhận thấy hướng dẫn tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP chỉ áp dụng đối với trường hợp văn bản Ủy quyền của đương sự không nêu rõ phạm vi Ủy quyền như trường hợp này hoặc mới phát sinh khi đương sự thực hiện quyền kháng cáo.